-
-
-
Tổng tiền thanh toán:
-
CÂY PHI LAO
Cây có nguồn gốc Châu Úc, hiện nay đã được trồng ở hầu hết các nước Đông Nam Á, các nước Châu Á và Châu Phi nhiệt đới.
Người Pháp đã đem cây Phi Lao vào trồng ở Việt Nam từ năm 1896. Hiện nay Phi Lao đã trở thành một trong những loài cây gỗ quen thuộc của Việt Nam. Hầu hết các tỉnh ven biển từ Quảng Ninh đến Kiên Giang đều trồng phi lao trên các bãi cát ven biển. Nhiều tỉnh miền Bắc Việt Nam trồng phi lao làm cây chắn gió, cây ven đường lấy bóng mát, hay trong công viên làm cây cảnh.
Đặc điểm
Cây Phi Lao là loại cây gỗ thường xanh, trung bình hay lớn, cao 15cm - 25cm, đường kính 20cm - 40cm hay hơn. Vỏ nâu nhạt, bong thành mảng, thịt nâu hồng. Cành nhỏ, có đốt, màu xanh lá cây và làm nhiệm vụ quang hợp thay cho lá. Lá tiêu giảm thành vảy nhỏ, bao quanh các đốt của cành, dài 1mm - 2mm.
Hoa đơn tính, cùng gốc. Cụm hoa đực hình đuôi sóc, gồm rất nhiều hoa đực mọc vòng, không có bao hoa; chỉ gồm 1 nhị, lúc đầu có chỉ ngắn, sau kéo dài; bao phấn 2 ô. Cụm hoa cái đơn độc, mọc ở ngọn các cành bên; hoa cái cũng không bao hoa, đính vào nách của 1 lá bắc. Bầu 1 ô, 2 noãn, nhưng chỉ một noãn phát triển. Quả tập hợp trong một cụm quả (quả phức) hình bầu dục, hoá gỗ với các lá bắc tồn tại. Hạt 1, không có nội nhũ.
Phi Lao có phạm vi thích ứng về mặt khí hậu tương đối rộng, từ khu vực xích đạo mưa nhiều, lượng mưa trung bình năm trên 2.000mm và không có mùa khô, đến khu vực khí hậu gió mùa có lượng mưa thấp 700mm - 800mm và mùa khô kéo dài 6 tháng - 7 tháng. Nhưng ở các khu vực này, phi lao thường sống trên các bãi cát ven biển. Thích hợp các loại đất cát pha nhẹ, tốt, sâu, ẩm, thoát nước, độ pH 6,5 - 7,0.
Cây sinh trưởng nhanh, cành lá xum xuê, hệ rễ phát triển, rễ cọc ăn sâu đến 2m, rễ ngang lan rộng và có vi khuẩn cố định đạm Frankia; có thể chịu được gió bão cấp 10, chịu được cát vùi lấp, trốc rễ. Thân cây chịu được cát va đập, nếu cây bị cát vùi lấp, nó có thể ra lớp rễ phụ mới ở ngang mặt đất vì vậy ở Việt Nam, tới nay phi lao vẫn là cây gỗ số một được trồng trên vùng cát cố định và cát bay ven biển. Sau khi trồng 1 năm, cây có thể đạt chiều cao 2m - 3m, đường kính 3cm; cây 4 tuổi cao 11m - 12m, đường kính 12-15cm; cây 10 tuổi cao 18m - 20m, đường kính trên 20cm. Thông thường trên 25 tuổi, cây ngừng sinh trưởng chiều cao, đến 30-50 tuổi cây trở nên già cỗi.
Phi Lao sinh trưởng quanh năm, nhưng vào mùa mưa, cây sinh trưởng nhanh hơn. Ở giai đoạn tuổi nhỏ cây chịu khô và chịu rét kém nhưng vượt qua giai đoạn này cây sinh trưởng tốt hơn.
Cây tái sinh chồi rất tốt. Trên thân cây có nhiều rễ bất định, do đó thân cây bị vùi lấp tới đâu, cây vẫn ra rễ được ở nơi đó và sinh trưởng bình thường.
Cây sinh trưởng tốt nhất trên đất cát mới bồi tụ ven biển và đồng bằng; cũng có thể sống được trên đất cát nghèo, đất dốc tụ có tầng dày, thành phần cơ giới nhẹ, độ pH 5,5. Nhưng trên đất quá khô xấu, đất đồi tầng mỏng, lẫn nhiều đá, đất có thành phần cơ giới nặng, bí chặt, độ pH 4-4,5, cây sinh trưởng rất kém; lá vàng đỏ, thường biến dạng thành cây bụi, thấp, thân nhỏ, cành loà xoà trên mặt đất hoặc bị chết dần.
Công dụng
Vỏ Phi Lao chứa tanin, thường đạt khoảng 11% - 18% trọng lượng vỏ. Tanin thường được dùng để thuộc da, nhuộm lưới đánh cá. Trong 100g cành phi lao ở Puerto Rico chứa: 1,56g N,0,16g P, 0,48g K,1,23g Ca,0,23g Mg và 3,28g Na.
Gỗ cứng, nặng, màu nâu nhạt và mềm với các vòng năm rõ. Tỉ trọng 0,978. Dễ bị mối mọt. Thường dùng trong xây dựng, trụ mỏ, đóng đồ gỗ, làm cột điện, và làm củi. Đây là loại củi tốt nhất trong các loài cây, ngay cả khi tươi củi cũng cháy tốt. Nhiệt lượng của gỗ là 24.000kJ/kg và nhiệt lượng của than từ gỗ phi lao là trên 33.500kJ/kg. Cành, lá Phi Lao rụng dưới rừng là nguồn củi đun chủ yếu cho nhân dân ở nhiều vùng ven biển. Nhược điểm của gỗ phi lao là có nhiều mắt, sức chịu uốn kém (dòn), dễ bị mối mọt, mục nát.
Lá cây nhiều cellulose nên dùng làm bột giấy thô và là nguồn thức ăn tốt cho trâu bò.
Đây cũng là loại cây công trình trồng chắn gió cho đồng ruộng rất phổ biến ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và duyên hải miền Trung. Gần đây một số dự án trồng phi lao ven biển để làm nguyên liệu giấy và ván dăm đã được tiến hành thử nghiệm ở một số tỉnh vùng Bắc Trung Bộ.
Phi Lao cũng được dùng làm thuốc. Rễ cây dùng làm thuốc chữa ỉa chảy và lị.
Do các cành và thân phi lao chịu cắt uốn nên còn dùng làm cây cảnh, cây bómg mát và cây bon sai.